Thứ Năm, 29 tháng 9, 2016

Ngày 29/09: CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE, RAPHAEL VÀ GRABRIEL

Theo Sách Thánh thì Thiên Chúa đã dựng nên rất đông các tạo vật thiêng liêng vô hình và các thánh tiến sĩ thì nói có lẽ các thần này được dựng nên trong ngày thứ nhất khi bắt đầu công việc tạo dựng.
Thiên Chúa dựng nên các thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ.
Theo như các lần các ngài xuất hiện, hiện ra, ta thấy các ngài là những vị thiêng liêng, tốt lành, quyền phép, mạnh mẽ và mau lẹ. Các ngài cũng đã từng trải qua cuộc thử thách. Trong cuộc thử thách này có một số đông đã tỏ ra không chịu thần phục Thiên Chúa. Đứng đầu là Luciphe nên đã bị Thiên Chúa loại bỏ.
MICAE
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một cuộc đại chiến. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh. Với khẩu hiệu: "AI BẰNG THIÊN CHÚA", ngài đã anh dũng đẩy lui bè lũ Luciphe. Khẩu hiệu này đã trở thành tên của ngài (MICAE).
Hôm nay Giáo hội mừng kính thánh Micae, vị thủ lãnh các thiên thần lành trên trời và còn là bổn mạng của Giáo hội dưới thế. Chính Ngài đã nhiều lần hiện xuống trần gian với nhiều nhiệm vụ khác nhau để thực hiện sứ mạng cao cả của Ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
Không có một ai, một vật nào được phép đứng ngang hàng với Thiên Chúa của chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng tốt lành, thánh thiện, mạnh mẽ phép tắc vô cùng. Người nhân từ vô biên, hiểu biết mọi sự, làm được mọi sự. Ngài là cội rễ mọi sự, là cùng đích của mọi loài. Không ai bằng Thiên Chúa.
RAPHAEL
Raphael xuất hiện ở trong Cựu Ước. Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
"Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria  vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia - Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời nhưng Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Grabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để đẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Grabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm Tobia.
Công việc xong, Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù. mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giup đỡ gia đình mình. Khi ấy "người thanh niên" tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu truyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là "THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA"  
GRABRIEL
Tên Grabriel có nghĩa là "SỨC MẠNH CỦA THIÊN CHÚA".
Chính đức Grabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Đaniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Grabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: "Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông... thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: "Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan"
Ông thưa lại: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điêu ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại:" Tôi là Grabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) v.v... Và sau đó mọi việc xẩy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Grabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn  ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: "Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế  người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa"(Lc 1,35)
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng. Thi sĩ Hàn mặc Tử khi nghĩ đến biến cố này thôi cũng đã phải run rảy mà thốt lên như thế này:
"Hỡi sứ thần Thiên Chúa Grabriel.
Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn loài?"
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.


Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

28/9 - T. Venceslaô, T. Laurensô, tử đạo

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

27/9 - T. Vinh Sơn Phaolô, linh mục - Lễ nhớ

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

26/9 - T. Cosma, T. Đamianô, tử đạo

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

23/9 - Lễ Thánh Piô Piettrelcina - Lễ nhớ

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

21/9 - Lễ Mattheo Tông đồ - Lễ kính.

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

15/9 - Lễ Đức Mẹ sầu bi

20/9 - Thánh Anrê Kim Têgon, Phaolô Chung Hasang và các bạn tử vì đạo

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

8/9 - Lễ sinh nhật Đức Maria

13/9 - Thánh Gioan Kim Khẩu

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

29/08 - Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết (Lễ nhớ)

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016

27/08 - Thánh nữ Monica

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

16/8 - Thánh STÊPHANÔ, người Hungary

16/8 - Thánh STÊPHANÔ, người Hungary
(977 - 1038)
I- Xuất thân:
Người Hung, gốc từ Á Châu, đã tiến vào lập cư trên bờ sông Danuble. Họ sống bằng chiến tranh cướp bóc, và dữ tợn như thú hoang. Vào đầu thiên niên kỷ này, Geysa, con cháu dòng Attila cai trị họ.
Hầu tước Geysa cưới Sarolta, một thiếu nữ Công giáo và dưới ảnh hưởng của nàng, ông đã trở lại đạo Công giáo. Nữ hầu tước rất nhiệt thành với đạo. Tương truyền rằng thánh Stêphanô đã báo cho bà biết rằng người con bà trông đợi sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ tiêu diệt ngẫu tượng trong xứ. Vì lòng sùng kính thánh tử đạo, bà thêm tên Stêphanô vào sau tên Vaik của con trẻ. Mười năm sau, Geysa xin thánh Ađalbert rửa tội cho con trẻ và mời các nhà truyền giáo đến. Stêphanô được trao cho các nhà thông thái và thánh thiện giáo dục. Mười lăm tuổi ngài đã chia sẻ với cha trách nhiệm trị nước và 22 tuổi ngài kế nghiệp cha sau khi ông qua đời.
II- Cuộc đời:
Lên cầm quyền chính, thánh Stêphanô tìm thỏa hiệp với các lân bang và hiến thân cải hóa toàn dân. Nhưng các lãnh Chúa theo ngẫu tượng bất mãn vì việc phóng thích nô lệ đã coi dân Hungari là dân phản loạn. Stêphanô chuẩn bị chiến tranh bằng lời cầu nguyện và sám hối cùng thi hành việc bố thí. Trên kỳ hiệu dẫn đầu binh đội, ngài trưng hình thánh giá Martinô và Grêriô. Thắng trận ngài cho xây tại chỗ là Vesprem một tu viện kính thánh Martinô.
Để chinh phục các thần dân cứng cỏi ngài chạy đến các tu sĩ Cluny. Từ các tu viện, chính các tu sĩ mở mang văn hóa cho xứ sở do các trường học cạnh tu viện. Thánh Stêphanô còn đề ra một chương trình ngoạn mục, ngài sai sứ giả sang triều yết Đức Giáo Hoàng Sylvester III, xin nhận Hungari vào số các quốc gia Kitô giáo và phong vương cho ngài. Đức Giáo Hoàng gởi cho ngài một triều thiên và một thánh giá vàng, ban cho ngài đặc ân dành cho các tông đồ. Thánh Stêphanô được công nhận là vua và tông đồ. Thánh Astrik đã phong vương cho vua năm 1001. Một thời gian sau ngài đã hoàn thành được 10 giáo phận với một tòa tổng giám mục tại Esztergem. Rất có lòng tôn sùng Đức Mẹ, ngài xây một thánh đường nguy nga kính Mẹ tại Székes-Féhéwaz.
Lòng bác ái của thánh Stêphanô còn vượt ra ngoài biên giới Hungari. ngài thiết lập nhiều nhà thương và tu viện ở Roma, Constantinople và Giêrusalem, cũng như các nhà cho khách hành hương Hungary. Trong lãnh thổ mình, ngài ra các sắc luật chống lại tội ác và lộng ngôn. Rất nghiêm khắc với những người lỗi luật Chúa, ngài lại rất nhân hậu đối với những bất công ngài lãnh chịu. Ngài ân cần săn sóc các người nghèo khổ, để hiểu rõ thực trạng, ngài hay tàng hình đi tìm kiếm họ. Một lần bọn ăn xin xô tới hành hạ ngài và cướp của. Tiếng đồn vang xa, các lãnh chúa cười nhạo ngài, nhưng ngài càng hiến thân cho người cùng khốn nhiều hơn nữa. Người ta nói rằng: ngài được ơn chữa bệnh và nói tiên tri. Đêm kia có tiếng bên trong giục ngài sai người tới tin cho dân vùng biên giới rút lui khỏi làng mạc của họ để khỏi bị tấn công. Sự việc xảy tới, vì được báo trước kịp thời, dân chúng được cứu thoát.
Conrad, tấn vương Germany muốn xâm chiếm Hungary với một đội quân hùng hậu. Stêphanô truyền cho binh lính ăn chay cầu nguyện. Binh đoàn của Conrad bị lạc giữa rừng cây, đầm lầy sông lạch, không thể tiếp tế được mà phải lui binh. Stêphanô toàn thắng mà không phải chiến đấu. Thánh vương ao ước thanh bình, đã phải chiến đấu nhiều để bảo vệ thần dân. Ngài chiến đấu ở Balan, cùng Balkan. Dầu chiến thắng ngài không ngừng cầu nguyện cho dân khỏi thảm họa chiến tranh. Thắng được hoàng tử Transyvania, ngài thả tự do cho ông và chỉ đòi điều kiện là ông cho phép các nhà truyền giáo đến xứ ông. Sự thánh thiện của Stêphanô đã khuất phục được tất cả thủ địch lẫn những người thán phục ngài.
Các thử thách lớn lao hoàn tất việc thánh hóa nhà vua. Ngài đã lập gia đình với nữ công tước Gisèle, con gái vua Henry II, bá tước miền Bavière. Hoàng hậu Gisèle là người đạo đức đã giúp vua Stêphanô rất nhiều. Nhưng chẳng may con cái họ đều qua đời lúc tuổi còn xanh. Còn một mình hoàng tử Emeric sẽ kế nghiệp cha nhưng lại tử nạn trong một tai nạn lúc đi săn. Thánh Stêphanô vượt cùng mọi đau đớn bằng cách nhiệt tâm với bổn phận. Ngài đã chịu bệnh trong một thời gian dài, lại còn bị ghen tương ám hại. Theo một tường thuật, các lãnh Chúa giận dữ và sự công thẳng của ngài đã tìm cách sát hại ngài. Kẻ sát nhân lận dao trong áo lẻn vào phòng ngài. Nhưng khi vừa thấy ngài, hắn bỗng hối hận và tự thú ý định tội ác của mình. Vua chỉ nói: hãy giải hòa với Chúa và đừng sợ bị tôi trả thù.
Ngày lễ Mông Triệu 15 tháng 8, thánh Stêphanô qua đời và được mai táng trong đền thờ Đức Bà ở Székes-Féhéwaz.
Thánh Stêphanô có lòng nhân hậu với nhiều người, cách đặc biệt là với kẻ hại mình. Xin cho mỗi chúng ta cũng biết noi gương Ngài sống quảng đại với tha nhân. Để qua cung cách hành xử của mỗi chúng ta, Chúa sẽ dùng để hoán cải nhiều tâm hồn.
TGP Sài Gòn

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

10/8 - Thánh Lôrenxô, phó tế, tử đạo

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

4/8 Thánh Gioan Maria Vianey, Linh Mục, Lễ nhớ

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016

1/8 - Thánh Alphongsô Maria Liguori, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh trinh nữ, tử đạo

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2016

2/8 - Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma, linh mục

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2016

25/7 - THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

Hạnh tích: Thánh GIACÔBÊ (tiền), Tông đồ
1. Thân thế của Giacôbê:
Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ; sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê. Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.
 Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan). Các ngài được chứng kiến:
·         Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại.
·         Sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor.
·         Lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.
Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23). Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa”.
2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).
Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi”, điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào. Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó. Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đế nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).
Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).
Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin. Bằng chứng là Márcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).
Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông. Chúa hoán cải các môn đệ:
·         Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).
·         Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28). Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.
3. Nhận thức và áp dụng:
Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền làm nghề chài lưới vất vả; đàng khác lại có tham vọng đi ngược với vai trò và tinh thần của người tông đồ, nhưng Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa. Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa Kitô quả có sức làm biến đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa.
Noi gương thánh Giacôbê: người tông đồ không nên tự ty mặc cảm về những hèn kém của mình, nhưng tin tưởng vào tình thương và sức mạnh của ơn Chúa để hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Đi theo Chúa, Giacôbê vẫn còn có những tham vọng phàm trần, song nhờ sự giáo huấn của Chúa và nhất là gương sống của Chúa đã khiến ông từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính bản thân mình để hiến mình cho Chúa cách trọn vẹn.
Người tông đồ cần lắng nghe lời Chúa để đón nhận những giáo huấn của Chúa; đồng thời phải biết chiêm ngắm gương sống của Chúa để noi gương bắt chước sống trọn vẹn cho Chúa.
Giacôbê được Chúa dành riêng trong nhóm những người thận cận của Chúa để được chứng kiến những sự việc cần thiết cho sứ mạng làm chứng nhân trong vai trò người Tông Đồ.
Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến, cũng được tuyển chọn riêng trong thời gian tu luyện để tìm gặp Chúa, đến với Chúa, ở lại với Chúa và để được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình. 
TGP SG

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

23/7 - THÁNH BRIGITTA, NỮ TU

Hạnh thánh: Thánh Brigitta, nữ tu (1303 – 1373)
Thánh Brigitta (hay là Birgitta) sinh ngày 14 tháng 6 năm 1303 tại Upland, Thụy Điển, nơi cha ngài cai quản. Mẹ ngài, bà Ingeborg Phinsta, là con của vị quan cai quản miền Đông Goythland. Brigitta là con út trong số 7 người con.
Truyền thuyết mặc cho cuộc sinh hạ của thánh nữ nhiều biến cố siêu nhiên. Ngay trước khi sinh ra thánh nữ, mẹ ngài đã thoát chết cách lạ lùng trong một cuộc đắm tàu. Một linh mục được thị kiến, thấy “tiếng nói của con trẻ được mọi người nghe theo”. Thực tế, Brigitta tới 3 tuổi mới nói được, nhưng lại nói rất sõi làm cho láng giềng phải kinh ngạc.
Lúc lên 7 tuổi, một buổi sáng có bà mặc áo trắng hiện đến đầu giường, tay cầm triều thiên và nói:
- Brigitta, con có muốn thiên thần này không?
Đứa trẻ đáp lời:
- Dạ con muốn lắm chứ.
Và Đức Trinh Nữ đã đội triều thiên lên đầu Brigitta.
Khi lên 10 tuổi, Brigitta đã được nghe giảng về cuộc khổ nạn của Chúa, thánh nữ rất cảm động. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra, mình đầy thương tích bê bết máu. Chúa nói:
- Con xem cha bị đối xử tàn tệ thế nào.
Đau đớn thánh nữ hỏi:
- Lạy Chúa, ai làm cho Chúa bị thương tích như vậy?
Chúa nói:
- Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu Cha.
Những hình ảnh này không bao giờ phai mờ trong tâm trí Brigitta. Năm 1314 mẹ thánh nữ từ trần. Ngài sống với người dì. Năm 1316, vì vâng lời và ngược với khuynh hướng tự nhiên, thánh nữ kết hôn với Ulf Gudmarsson, 18 tuổi, nghị viên tương lai của vương quốc. Họ sinh được tám người con, 4 trai, 4 gái. Hai người con trai chết sớm. Karl, người con trưởng nặng tinh thần thế tục, nhưng lại rất kính mến Đức Mẹ. Birger, người con gái thứ hai, lập gia đình. Nhưng sau này trở thành người cộng sự của mẹ và sẽ đem xác mẹ từ Roma về chôn cất tại Thụy Điển. Ba người con gái khác đều lập gia đình Merita và Cêcilia ở lại Thụy Điển. Còn Catarina sau khi mất chồng đã sống với mẹ.
Người con trai thứ tư, Ingebord đã trở thành tu sĩ dòng Xitô.
Vua Magour mời thánh nữ vào làm cố vấn cho hoàng hậu Blanche. Ngài trở thành người quản gia thứ hai trong triều sau hoàng hậu, nhưng đã cố gắng một cách vô hiệu trong nỗ lực biến cải đời sống của hoàng hậu lẫn của nhà vua. Sau một cơn bệnh nguy ngập và được Đức Trinh Nữ chữa lành, thánh nữ khuyên chồng rời bỏ triều đình lui về nhà riêng họ đã sống đời gia đình gần như sống trong tu viện.
Brigitta cùng chồng đi hành hương đền thờ thánh Giacôbê ở Compostella. Trên đường về, ông Ulf lâm trọng bệnh. Năm 1943, nghĩa là 28 năm sau ngày cưới, ông qua đời tại tu viện Alvasta và Brigitta sống đời sám hối gần tu viện Xitô ở Alvasta. Khi sống tại đây thánh nữ soạn một bộ luật dòng mà ngài được kêu gọi thành lập, nhưng sinh thời ngài không bao giờ thấy được dòng ấy thành hình. Chính Cararina, ái nữ ngài, sẽ hướng dẫn nhà dòng phát triển mạnh mẽ, sau khi được Đức Urbanô V châu phê năm 1370 và sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh nữ Brigitta được ơn tiên tri và thực hiện nhiều cuộc chữa trị lạ lùng cho Giáo hội và xã hội. Chúng ta biết rằng: khi đã trở thành goá phụ, thánh nữ đã sống đời khổ hạnh, ít ăn, ít ngủ và cầu nguyện không ngừng. Ngài theo đuổi một luật sống nghiêm ngặt và thực hiện đủ công trình bác ái, đến nỗi chính ngài phải đi ăn xin. Dù vậy, ngài không rút lui hoàn toàn vào cô đơn. Ngài được linh ứng và cha tuyên úy của ngài viết lại bằng tiếng La-tinh dưới tựa đề “mạc khải”. Ngài cũng viết nhiều thư tín cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Hồng y và các nhà cầm quyền để vạch trần những tật xấu của họ, cũng như chỉ vẽ cách thế canh tân đời sống họ. Đối với nhà vua, ngài chỉ trích các hà khắc và khuyên sống với địa vị của mình. Ngài còn nhờ một Giám mục mang thư khuyên hai vua Anh và Pháp hòa giải với nhau. Đối với Đức Giáo Hoàng Clêmentê VI đang ở Avignon, ngài xin vị cha chung trở về Roma.
Năm 1349, thánh nữ đi hành hương Roma để dự Năm Thánh. Nhân dịp này, ngài xin Toà Thánh châu phê luật dòng, nhưng từ năm 1215 công đồng Lateranô IV đã cấm lập thêm dòng mới. Năm 1370, Đức Giáo Hoàng Urbanô V châu phê luật dòng của ngài. Được ơn soi sáng, năm 1372, thánh Brigitta đi hành hương Thánh địa để cầu nguyện cho Giáo hội.
Năm 1373, thánh nữ trở về Roma và từ trần vào ngày 23 tháng 7. Mười tám năm sau, ngày 7 tháng 10 năm 1391, ngài được ĐGH Boniface IX phong thánh.

TGP SG

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

22/7 - THÁNH NỮ MARIA MAĐALÊNA

Hạnh tích: Thánh nữ MARIA MAĐALÊNA
Thánh nữ Maria thành Magđala (Mácđala hay Mađalêna) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Người (x. Lc 8,2).
Trong Phúc Âm có nói nhiều về những người mang tên Maria, cũng được Chúa chú tâm đặc biệt, ít nhất là có ba người, đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magđala (miền Galilê) và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Phúc Âm Thánh Luca (x. Lc 7).
Phụng vụ Giáo Hội La Mã, kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Chúa Giêsu (x. Lc 7,36-50) và là em của Mátta và Lagiarô (x. Lc 10,38,50 ; Ga 12,1-8). Thế nhưng khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này.
Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria Magđala đã đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu (x. Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuộc táng xác Chúa (x. Mc 15,47) và vào buổi sáng phục Sinh, bà cùng mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (x. Mc 16,1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ tin mừng Phục Sinh (x. Mc 16,9 ; Ga 14-18).

 TGP SG

Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2016

15/7 - THÁNH BÔNAVENTURA

Hạnh Thánh: Thánh Bônaventura (1221 – 1274)
Sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người mẹ kêu lên: “Obuona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét:
- Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquino. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào? Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời:
- Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này. Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Luy IX, Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả. Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?
Bonaventuratrả lời: Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quý báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?
Thánh nhân trả lời: Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thầy dòng vui vẻ la lớn: Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn “chú giải luật dòng Phanxicô”, “hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa”.
Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay. Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chân. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.

Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô IV tuyên Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến”.
TGP SG

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

11/7 - THÁNH BÊNÊĐICTÔ, VIỆN PHỤ

Hạnh Thánh: Thánh Bênêđictô, Viện Phụ (480-547)
1. Đôi hàng tiểu sử
Thánh Bênêđictô sinh ti Norcia năm 480 trong mt gia đình giàu sang quý tc.
Khi nh, cha m cho ngài được ăn hc đa phương, đ gn gũi vi gia đình, d b đào to tính tình đc hnh.
Năm 14 tui, thánh nhân được gi đến hc Rôma. Hc Rôma được mt thi gian, ngài thy Rôma không phù hp vi mình vì cuc sng Rôma lúc đó rt suy đi try lc. Đ gi gìn linh hn mình được luôn trong sch. Ngài đã trn khi kinh thành, mun tìm đến mt nơi thanh vng, sng đi n tu tch mc. Ý mun ca Ngài đã được Chúa ưng thun. Min hoang đa cách Rôma 40 dm là nơi Ngài đã dng chân đ được sng cuc đi tch liêu thân mt vi Chúa. Trong khi còn đi lang thang tìm mt hang trú n, Bênêđictô gp được thy Rômanô, mt tu sĩ cùng chí hướng vi mình. Tình yêu và lý tưởng đã kết hp hai người thành đôi bn chí thiết. Rômanô ch cho Bênêđictô mt hang rt kín chưa h có mt vết chân người lui ti. Bênêđictô sng đó ba năm. Hng ngày thy Rômanô mang bánh cho Ngài. Sau thi gian vn vi sng đi n dt hoàn toàn, Chúa mun đt ngn đèn thánh thin ca Bênêđictô lên nơi cao đ soi dn cho nhiu người.
Ma qu thy nhân đc ca ngài thì luôn tìm đ cách quy phá. Đng trước nhng cám d ca ma qu, Ngài luôn làm du Thánh giá xua đui chúng. Còn nhng người mun sng đi nhân đc trn lành tìm đến, thì Ngài luôn sn sàng hướng dn giúp đ, dy bo. Nh đó mà danh thơm thánh thin ca ngài lan rng khp nơi. C nhng người quý phái Rôma cũng đến xin làm môn đ ngài. Ngài thành lp 12 tu vin nh, đ tiếp nhn h và giúp h tp rèn nhân đc.
S người mun tu luyn theo đường li thánh nhân mi ngày mt đông, nên năm 520, ngài phi di v Montô Cátsinô, thành lp tu vin. Đây là tu vin đu tiên ca thánh Bênêđictô. Chính Ngài son tu lut cho tu vin. Sau này tu lut mang tên người được ph biến khp châu Âu, nên người được mnh danh là T ph ca nếp sng đan tu phương Tây.
Ngày nay hu như tt c các nước trên thế gii đã có s hin din ca các đan vin sng theo lý tưởng ca Ngài. Các tu sĩ ca Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân gi ba đc đim như ba ct tr chi phi và nâng đ đi sng ca mình. Ba ct tr đó là cu nguyn, hc hành và lao đng. Người tu sĩ hng ngày chuyên cn cu nguyn, siêng năng hc hi Li Chúa và làm vic chân tay đ t nuôi sng.
Bênêdictô qua đi ngày 21 tháng 3 năm 547. T cui thế k VIII, Ngài đã được kính nh vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đc Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư S gi hoà bình (Pacis nuntius), đt người làm bn mng toàn châu Âu.
Sau khi Ngài qua đi, các môn đ ca thánh nhân đt xác thy mình bên cnh xác em gái Ngài, trong m Ngài đã dn sn cho mình dưới bàn th thánh Gioan Baotixita.
Cuc đi trn thế ca thánh nhân ti đây kết liu, nhưng danh thơm và s nghip vĩ đi ca Ngài s còn tn ti như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được b tu lut bt h ca Ngài đã làm hng khi bao tâm hn đo đc là kim chí nam cho nhng ai mun nên thánh thin. Đàng khác s tiến phát mau l ca dòng và con s đông đo ca nhng tu sĩ ri rác khp năm châu, phi chăng chính là du Chúa quan phòng hng chúc phúc cho s nghip ca đng thánh qua muôn thế hệ.
2. Con đường nên Thánh
a. Chí muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa
Trong cuốn “đối thoại”, thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa”. Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ này là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa”. Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng. Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin. Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật. Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật. Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài” Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống”. Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin. Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự  Chúa”, cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những  “bình thánh”, cung hiến cho Thiên Chúa  (Qui luật 31).
Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57). Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn toàn hơn?- Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa. Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng”(43). Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác. Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53). Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36). Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.
b. Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa
Năm 339, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói. Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa. Thấy các thầy ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thầy vì thiếu lòng tin tưởng. Ngài nói:
- Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh? Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.
Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến. Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời lâm đói kém, mất mùa cũng vậy. Lần  khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách. Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp. Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:
- Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.
Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:
- Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.
c. Quy luật của đời sống cộng đoàn:
“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là:
Ân cần tôn kính lẫn nhau;
Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau;
Thi đua vâng lời nhau;
Không ai tìm ích lợi cho mình;
Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau;
Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng;
Kính sợ Chúa trong tình thương;
Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;
Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời.”

TGP SG